Các phiên: RSVP xác định phiên là một dòng lưu lượng với một địa chỉ đích IP và giao thức lớp vận chuyển nào đó. Một phiên RSVP được xác định bởi địa chỉ đích IP (DestAddress), nhận dạng giao thức IP (ProtocolId), và nhận dạng cổng đích (DestPort). Địa chỉ đích IP của gói dữ liệu có thể là địa chỉ đơn hướng hay đa hướng. ProtocolId là nhận dạng giao thức IP. Tham số chức năng DestPort là một “cổng đích đã được tổng quát hóa”. DestPort có thể được xác định bởi trường cổng đích UDP/TCP, hay bởi một trường tương đương trong giao thức vận chuyển khác.
Các bản tin chính của giao thức RSVP: RSVP yêu cầu phía thu đưa ra các tham số QoS cho dòng lưu lượng. Các ứng dụng tiếp nhận dòng lưu lượng đến phải xác định bản ghi QoS (chứa các tham số QoS) rồi chuyển tới RSVP. Sau khi phân tích yêu cầu này, RSVP gửi các bản tin yêu cầu tới tất cả các node tham gia vào việc vận chuyển dòng lưu lượng. Như được biểu diện trong hình 3.20, các hoạt động được bắt đầu bằng bản tin Path RSVP. Nó được sử dụng bởi phía gửi để thiết lập một đường đi cho phiên (dòng lưu lượng).
Hình 1: Các bản tin Path và Reservation
Hình 1 cũng chỉ ra rằng các bản tin Reservation được gửi bởi phía nhận và chúng cho phép phía gửi cũng như các node trung gian biết các yêu cầu của phía nhận. Đường đi của bản tin Reservation là giống với đường đi của bản tin Path, nhưng ở phương ngược lại. Điều khiển chấp nhận và Điều khiển chính sách: Nhìn vào hình 1 chúng ta thấy được quá trình RSVP chuyển các yêu cầu tới điều khiển chấp nhận và điều khiển chính sách.
Nếu sự kiểm tra xảy ra một trong hai điều khiển đó không thành công, sự dành trước tài nguyên sẽ bị huỷ bỏ và quá trình RSVP trả lại bản tin thông báo lỗi tới phía nhận tương ứng. Nếu cả hai sự kiểm tra trong hai điều khiển này thành công thì node sẽ cho phép bộ phân loại gói lựa chọn các gói dữ liệu – như được xác định bởi filterspec và tương tác với lớp liên kết dữ liệu tương ứng để đạt được QoS mong đợi – như được xác định bởi flowspec. Trong phần tới chúng ta sẽ tìm hiểu về filterspec và flowspec.
Bộ mô tả dòng lưu lượng.
Một bản tin dành trước tài nguyên RSVP đơn giản chứa một flowspec và một filterspec, hai thành phần này kết hợp với nhau được gọi là một bộ mô tả dòng lưu lượng (Xem hình 2). Flowspec xác định tham số QoS được yêu cầu. Filterspec, cùng với các tham số đặc tả dòng lưu lượng khác, xác định nên một tập các gói dữ liệu - dòng lưu lượng để nhận được mức QoS như đã được xác định trong flowspec. Flowspec thiết lập các tham số ở trong bộ lập lịch gói hay ở trong các cơ chế lớp liên kết dữ liệu khác và filterspec thiết lập các tham số ở trong bộ phân loại gói.
Các gói dữ liệu được đánh địa chỉ cho một dòng lưu lượng nào đó nhưng không phù hợp với mọi filterspec cho dòng lưu lượng (phiên) đó được xử lý như là dòng lưu lượng của dịch vụ “nỗ lực tối đa”. Flowspec trong bản tin yêu cầu dành trước tài nguyên thường bao gồm một lớp dịch vụ và hai tập các tham số có tính chất con số: (1) Rspec (R-Reserve) dùng để xác định mức QoS mong muốn và (2) Tspec (T-Traffic) dùng để mô tả dòng lưu lượng.
Khuôn dạng và nội dung của các Tspec và Rspec được xác định bởi các mô hình dịch vụ được tích hợp (xem RFC 2210). Các trường bên trong các bản tin RSVP được gọi là các đối tượng. Từ khi RSVP ra đời, nhiều đối tượng đã liên tục được bổ sung. Chúng ta sẽ đề cập đến những đối tượng trong các bản tin RSVP liên quan đến MPLS trong phần tiếp theo.
Hình 2: Bộ mô tả lưu lượng
Lê Sơn Hà – VnPro
Mời các bạn xem phần 1 tại đây.